BÀI SỐ 3
NHỮNG TRƯỜNG HỢP KHÔNG PHẢI LÀ TỘI PHẠM
Trong thực tế chống tộ phạm, thường có những hành vi hội đủ các yếu tố cấu thành tội phạm, tức là hành vi đó, nhìn bề ngoài mang đầy đủ tính nguy hiểm cho xã hội. Nhưng nếu xét nội dung của hành vi, tức nguyên nhân dẫn đến hành vi này ( hay còn gọi là bản chất của hành vi) thì thấy những hành vi như thết có những tình tiết làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội và vì vậy những hành vi này không được coi là tội phạm.
Trong Bộ luật Hình sự Việt Nam qui định những trường hợp sau đây không phải là tội phạm:
– Tình trạng không đủ năng lực trách nhiệm hình sự ( khoản 1 điều 13)/
– Sự kiện bất ngờ (điều 11)
– Phòng vệ chính đáng (điều 15).
– Tình thế cấp thiết ( khoản 1,điều 16)
- TÌNH TRẠNG KHÔNG CÓ NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
Theo qui định tại khoản 1, điều 13, BLHS thì tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Như vậy, tiêu chuẩn (dấu hiệu) để xác minh một người không có năng lực trách nhiệm hình sự là mắc bệnh (theo tiêu chuẩn y học) và tâm lý (mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi). Hai dấu hiệu này liên hệ chặt chẽ với nhau, cái này là tiền đề của cái kia, cái kia là kết quả của cái này.
Một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh làm mất khả năng nhận thức phải được hội đồng giám định y khoa xác định và kết luận.
- SỰ KIỆN BẤT NGỜ
1- Khái niệm:
Sự kiện bất ngờ được qui định tại điều 11 BLHS như sau: “ người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội do sự kiện bất ngờ, tức là trong trường hợp không thể thấy trước được hậu quả của hành vi đó thì không phải chịu trách nhiệm hình sự “.
Trong trường hợp này, người gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội không có lỗi, tức là hành vi của họ không cấu thành tội phạm ( thiếu dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của cấu thành tội phạm).
2- Điều kiện trong sự kiện bất ngờ:
2.1 Thứ nhất: người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có khả năng và ở trong hoàn cảnh không thể thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây ra.
2.2 Thứ hai: người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không buộc phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây nên.
III. PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
1- Khái niệm:
Phòng vệ chính đáng được qui định tại điều 15 BLHS như sau: “phòng vệ chính đáng là hành vi của một người vi bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, bảo vệ quyền, lợi tích chính đáng của mình hoặc của người khác, mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm hịa các lợi ích nói trên”.
2- Điều kiện
2.1 Thứ nhất: có hành vi xâm hại vào lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Những lợi ích nói trên có thể là quyền sở hữu đối với tài sản, quyền được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm hoặc những quan hệ xã hội mà luật hình sự bảo vệ. Hành vi xâm hại này có thể được thể hiện bằng hành đồng như chiếm đoạt tài sản, đâm chém, đấm, đá.. vào thân thể người khác. Trong thực tế, hành vi xâm phạm phải xảy ra trước hành vi phòng vệ về mặt thời gian.
2.2 Thứ hai: hành vi xâm hịa vào các quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ phải đang xảy ra. Khi nói hàn vi xâm hại đang xảy ra là hành vi xâm hại đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc. Hành vi đang diễn ra đang gây ra thiệt hại hoặc đê doạ gây ra thiệt hại thạt sự, ngây tức khắc và vần phải có hành vi ngăn chặn sự thiệt hại để hạn chế hậu quả xảy ra hoặc không cho hậu quả gây nguy hiểm cho xã hội xảy ra. Vì vậy, mục đích của hành vi phòng vệ chính trong trường hợp này là nhằm ngăn chặn, hạn chế hậu quả do hành vi xâm phạm gây nên.
2.3 Thứ ba: thiệt hại gây ra cho chính người có hành vi xâm hại. Nếu người có hành vi xâm hại không bị gây thiệt hại thì không có phòng vệ chính đáng.
2.4 Thứ tư: hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại. Sự tương xứng giữa hành vi xâm hại và hành vi phòng vệ trong việc sử dụng phương pháp, phương tiện để gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại nhằm ngăn chặn được sự xâm hại, hạn chế được những thiệt hại do người xâm hại gây ra.
* Tóm lại: để được thừa nhận là phòng vệ chính đáng cần có đủ các điều kiện sau:
– Có hành vi xâm hại vào các lợi ích hợp pháp.
– Hành vi xâm hại đó đang xảy ra.
– Thiệt hại gây ra cho chính người xâm hại.
– Hành vi phòng vệ phải tương xứng với hành vi xâm hại.
Nếu thiếu một trong các điều kiện nói trên thì từng trường hợp cụ thể, người có hành vi chống trả hoặc không được thừa nhận là người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng, hoặc được coi là vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và trách nhiệm hình sự vẫn đặt ra đối với người đó.
- TÌNH THẾ CẤP THIẾT
1-Khái niệm: tình thế cấp thiết là một tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mặc dù về dấu hiệu bên ngoài nó giống như một hành vi phạm tội.
Theo khoản 1, điều 16, BLHS thì: “tình thế cấp thiết là tình thế của một người vì muốn tránh một nguy cơ đang thực tế đe doạ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa”. Gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm.
2- Điều kiện:
1.1 Thứ nhất: phải có sự nguy hiểm đang đe doạ gây ra thiệt hại ngây tức khắc.
Nếu trong phòng vệ chính đáng, nguồn gốc của sự nguy hiểm chỉ là sự tấn công của con người, thì trong tình thế cấp thiết, sự nguy hiẻm đang đe doạ gây ra thiệt hại có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau như: các hiện tượng trong thiên nhiên (bão, lụt, động đất…), cũng có thể phát sinh trong quá trình lao động sản xuất, hoạt động kinh doanh (sử dụng máy móc, điều khiển các phương tiện giao thông…), hoặc do sự tấn công của các loài động vật… buộc phải gây thiệt hại để bảo vệ một lợi ích lớn hơn.
Sự nguy hiểm đang đe dạo gây ra thiệt hại phải là sự nguy hiểm đe doạ ngây tức khắc thì mới được coi là trong tình thế cấp thiết.
2.2 Thứ hai: sự nguy hiểm đang đe doạ phải là sự nguy hiểm thực tế.
Nếu sự nguy hiểm đó không chứa đựng khả năng thực tế gây ra hậu quả cho xã hội mà chỉ do người gây thiệt hại tưởng tượng ra thì không được coi là gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết.
2.3 Thứ ba: việc gây thiệt hại để tránh một thiệt hại khác là sự lựa chọn duy nhất.
Điều kiện này đòi hỏi người gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết phải tính toán được chính xác và nhanh chóng khả năng đe doạ ngây tức khắc của sự nguy hiểm, nêu không chọn phương án gây thiệt hại thì tất yếu không thể tránh được thiệt hại lớn hơn.
2.4 Thứ tư: thiệt hại gây ra phải nhỏ hơn thiệt hại muốn tránh.
Nếu trong phòng vệ chính đáng, thiệt hại mà người phòng vệ gây ra chỉ có thể là tính mạng, sức khoẻ cho chính người có hành vi tấn công, thì trong tình thế cấp thiết gây ra lại chủ yếu là hành vi gây ra sụ nguy hiểm đe doạ gây ra thiệt hại cho xã hội mà là người khác (người thứ ba). Về nguyền tắc, luật Hình sự Việt Nam không thừa nhận thiệt hại về tính mạng trong tình thế cấp thiết.
Hành động trong tình thế cấp thiết không chỉ là quyền mà còn là nghĩa vụ của mọi người, lên được khuyến khích và được pháp luật bảo vệ.