BÀI SỐ 2
TỘI PHẠM VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
- KHÁI NIỆM VỀ TỘI PHẠM
1- Định nghĩa:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, câm phạm độc lập, chủ quyển, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội. Quyền, lợi ích hợp pháp của Tổ quốc, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.
Từ định nghĩa trên ta rút ra các nội dung chủ yếu của tội phạm như sau:
– Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội.
– Tội phạm được qui định trong Bộ luật hình sự.
– Tội phạm do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện.
– Tội phạm được thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
– Tội phạm xâm phạm vào những quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ.
Có thể nêu ngắn gọn định nghĩa tội phạm như sau: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, được qui định trong luật Hình sự và phải chịu trách nhiệm hình phạt.
2- Những dấu hiệu của tội phạm:
Tội phạm còn có thể được xem xét thông qua các dấu hiệu của nó như tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính có lỗi, tính trái pháp luật và tính phải chịu hình phạt. Bằng cách này, tội phạm được phản ánh bằng các dấu hiệu (đặc điểm) sau đây:
2.1 Tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi:
Hành vi nguy hiểm cho xã hội là hành vi đã gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể đến các quan hệ xã hội được Bộ luật Hình sự bảo vệ.
Các quan hệ đó là: độc lập, chủ quyển, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Quyền, lợi ích hợp pháp của Tổ quốc, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do tài sản. Các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN.
Nếu không xâm phạm vào quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì không có hành vi nguy hiểm cho xã hội và tất yêu không có tội phạm xảy ra.
2.2 Tính có lỗi:
2.2.1 Lỗi là thái độ tâm lý của một người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả của hành vi đó dưới hình thức cố ý hoặc vô ý. Vì vậy, nếu một hành vi nguy hiểm cho xã hội không bị coi là có lỗi thì người có hành vi đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2.2.2 Cố ý phạm lỗi
– Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
– Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó xảy, tuy không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra.
+ Cố ý có dự mưu: là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó đã suy nghĩ, tính toán cẩn thận mới bắt tay vào thực hiện phạm tội.
+ Cố ý đột suất: là trường hợp một người vừa có ý định phạm tội đã thực hiện ngây ý định đó.
+ Cố ý xác định: là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi đã xác định được hậu quả ngây.
+ Cố ý không xác định: là trường hợp trước khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người có hành vi không hình dung chính xác hậu quả xảy ra như thế nào.
2.2.3 Vô ý phạm tội
Theo qui định tại điều 10 Bộ luật Hình sự thì vô ý phạm tội là tội phạm trong trường hợp sau đây:
– Người phạm tội tuy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được.
– Người phạm tội không thấy hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
+ Vô ý vì cẩu thả: do cẩu thả mà phạm tội, không thấy trước khả năng gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước.
+ Vô ý vì quá tự tin: nhận thức được hành vi của mình có thể gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội, nhưng tin rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được, nhưng hậu quả đó vẫn xảy ra.
- Những trường hợp hành vi không cói là có lỗi:
– Sự kiện bất ngờ trong đó người thực hiện hành vi không thể thấy trước được hậu quả hoặc không buộic phải thấy trước hậu quả do hành vi của mình gây nên.
– Phòng vệ chính đáng.
– Tình thế cấp thiết.
2.3 Tình trái pháp luật hình sự:
Có nhiều hành vi có thể nói là nguy hiểm cho xã hội nhưng không phải hành vi nào cũng là phạm tội mà chỉ những hành vi được qui định trong Bộ luật hình sự mới là hành vi phạm tội.
Nói cách khác, tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự. Chỉ người nào phạm một tội đã đuợc Bộ luật hình sự qui định mới phải chịu trách nhiệm hình sự (điều 8 BLHS).
Như vậy, khi có một hành vi được coi là phạm tội thì phải chỉ rõ hành vi đó được qui định ở khoản nào, chương nào của Bộ luật hình sự.
2.4 Chủ thể của tội phạm phải là người có năng lựuc trách nhiệm hình sự:
– Hành vi nguy hiểm cho xã hội bao giờ cũng được thực hiện bởi một con người cụ thể. Như không phải bất kì người nào thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cũng là người phạm tội. Trong bộ luật hình sự qui định rõ người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội phải là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự mới là chủ thể của tội phạm.
– Bộ luật hình sự không qui định trách nhiệm hình sự là gì. Mà chỉ qui định tình trạng không đủ năng lực trách nhiệm hình sự (điều 13) và tuổi chịu trách nhiệm hình sự (điều 12). Từ những qui định này, cần hiểu rằng chủ thể của tội phạm phải là người ở một độ tuổi nhất định và là người nhận thức được và điều khiển được hành vi của mình.
– Có khái niệm chủ thể đặc biệt: chỉ có người mẹ mới là chủ thể của tội giết con mới để (điều 94) hoặc chỉ có người có chức vụ mới là chủ thể của các tội phạm về chức vụ (chương XXI Bộ luật hình sự).
3- Phân loại tội phạm:
Phân loại tội phạm là phân chia tội phạm ra thành từng nhóm dựa trên những căn cứ nhất định để phục vụ cho cuộc đấu tranh chống tội phạm. Bộ luật hình sự năm 1999 chia tội phạm ra làm 4 loại cụ thể:
- Tội phạm ít nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại không lơn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội phạm này là 03 năm tù.
- Tội phạm nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là đến 07 năm tù.
- Tội phạm rất nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức câo nhất của khung hình phạt đối với tội này là đến 15 năm tù.
- Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng: là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội này là trên 15 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.
Những hành vi khi có dấu hiệu tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là tội phạm và xử lý bằng các biện pháp khác.
Trong Bộ luật hình sự năm 1999 có nhiều tội đã được lượng hoá hâu quả hoặc thiệt hại. Nếu hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa gây ra hậu quả hoặc thiệt hại tới mức được coi là tội phạm thì không gọi là tội phạm.
4- Phân biệt tội phạm và các hành vi phạm pháp luật khác
4.1 Khái niệm vi phạm pháp luật khác:
Vi phạm pháp luật nói chung (trong đó có cả luật hình sự) là những hành vi xử sự (bằng hành động hoặc không hành động) trái với qui định của pháp luật, có lỗi và xâm phạm đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, gây nên những thiệt hại trong chừng mực nhất định và phải chịu các hình thức xử lí theo pháp luật qui định.
4-2Sự giống và khác nhau giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác:
Căn cứ khái niệm vi phạm pháp luật có thể thấy giữa tội phạm và vi phạm pháp luật khác có những điểm giống nhau và khác nhau sau đây:
* Giống nhau:
– Thứ nhất: đều được thể hiện bằng hành vi dưới hình thức hành động hay không hành động.
– Thứ hai: đều xâm phạm vào những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
– Thứ ba: người thực hiện hành vi là người có nhận thức, điều khiển được hành vi của mình.
– Thứ tư: đều là yếu tố có lỗi, tức là đều được thực hiện do cố ý hay vô ý.
* Sự khác nhau:
– Thứ nhất: tội phạm là hành vi xâm phạm vào quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Còn vi phạm pháp luật khác lại là sự vi phạm vào những quan hệ xã hội được các ngành luật ngoài luật hình sự qui định ( văn bản pháp luật khác).
– Thứ hai: hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy hiểm cao hơn so với hành vi vi phạm pháp luật khác.
– Thứ ba: mức độ, hậu quả thiệt hại cho xã hội của tội phạm gây nên lớn hơn so với hiệu quả thiệt hại do các hành vi vi phạm pháp luật khác gây lên.
– Thứ tư: biện pháp cưỡng chế được áp dụng với tội phạm nghiêm khắc hơn so với hành vi vi phạm pháp luật khác.
Trong thực tế, có nhiều hành vi vi phạm luật khác rất khó phân biệt với tội phạm, nhất là những hành vi nằm ở khu vực giáp ranh giữa tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác. Vì vậy, việc nắm vững những dấu hiệu phân biệt giữa tội phạm và hành vi vi phạm pháp luật khác là rất cần thiết để tránh những sai sót xảy ra trong khi giải quyết vụ án hình sự, hoặc giải quyết những vụ việc có liên quan đến hoạt động bảo vệ.
- CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH TỘI PHẠM
1- Khái niệm về cấu thành tội phạm:
Căn cứ để xác định một hành vi nguy hiểm cho xã hội có phải là tộ phạm hay không là dựa vào các dấu hiệu tội phạm. Nhưng nếu chỉ xác định được có tội phạm xảy ra thì chưa xử lý được người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà đòi hỏi xác định được tội phạm xảy ra là tội phạm gì? Được qui định trong điều nào của BLHS? Muốn giải quyết được vấn đề này phải dựa vào các yếu tố cấu thành tội phạm.
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lí đặc trưng của những tội phạm cụ thể được qui định trong luật hình sự.
2- Các yếu tố cấu thành cụ thể của tội phạm:
2.1 Khách thể của tội phạm: là những quan hệ xã hội được luật Hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại gây nên thiệt hại hoặc đe doạ gây nên thiệt hại trong chừng mực nhất định.
2.2 Mặt khách quan của tội phạm: là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, thời gian, không gian, hoàn cảnh, địa điểm, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn khi thực hiện phạm tội…
2.3 Mặt chủ quan của tội phạm: là những biểu hiện tâm lý bên trong của tội phạm. Bao gồm: lỗi, động cơ, mục đích của tội phạm.
2.4 Chủ thể của tội phạmI: là con người cụ thể khi thực hiện phạm tội. Bao gồm: các dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi mà luật Hình sự qui định.